1. XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG THỜI KỲ CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
Đế quốc Mỹ có âm mưu can thiệp vào Việt Nam từ thời kỳ 1945-1946, khi ủng hộ quân đội Tưởng Giới Thạch kéo vào hòng lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ, lập chính quyền tay sai. Từ năm 1950, Mỹ công khai giúp Pháp duy trì, đẩy mạnh cuộc chiến tranh Đông Dương và từ tháng 7/1954, khi Pháp thất bại, Mỹ đã trực tiếp cai trị và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Hoa Kỳ. Đế quốc Mỹ đã huy động mọi nguồn lực có thể để thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Lực lượng Mỹ huy động cho chiến trường Việt Nam (1956-đầu 1975): + Thời gian chiến tranh (tháng): 222 (chiến tranh thế giới 2: 42 tháng) + Chi phí chiến tranh (tỷ đô la): 676 (chiến tranh thế giới 2: 341 tỷ) + Số lượt lính tham chiến (ngàn lượt): 6.600 + Xí nghiệp phục vụ (ngàn): 122 + Tỷ lệ quân chủng tham gia: Lục quân: 70%, Thủy đánh bộ: 60%; Hải quân: 40%; Không quân: 60% |
Những số liệu đó chứng minh chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh lớn nhất, kéo dài nhất, tốn kém nhất của đế quốc Mỹ.
Để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược đó, theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh, Việt Nam đã rất coi trọng xây dựng hậu phương về mọi mặt, tạo nên tiềm lực ngày càng to lớn nhằm bảm đảm hậu cần, nâng cao sức mạnh của của Quân đội, để đẩy mạng cuộc kháng chiến từ thấp đến cao, đến toàn thắng.
Ở miền Bắc, về chính trị, từ 7/1954, Việt Nam đã có chủ trương thanh thủ hòa bình, củng cố miền Bắc, quyết định tập kết lực lượng từ miền Nam ra miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa của cách mạng cả nước. Thời kỳ 1955-1960, Việt Nam tập trung hoàn thành các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa để đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu thuẫn cho đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 9/1960, Đại hội lần thứ III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, xác định tuy cùng thực hiện một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, song miền Bắc và miền Nam có vai trò, vị trí riêng, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với việc thống nhất Tổ quốc nên phải ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, làm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước, hậu phương chiến lược cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Nhiều phong trào quần chúng thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường quốc phòng được phát động, như : “Gió Đại Phong, sóng Duyên Hải, cờ Ba nhất”, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “toàn dân làm giao thông vận tải”, “tất cả vì tiền tuyến lớn miền Nam.
- Về kinh tế, đến năm 1957, miền Bắc hoàn thành kế hoạch khôi kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đạt mức độ tăng trưởng như năm 1939, năm thịnh đạt nhất thời Pháp thuộc. Đến năm 1965, miền Bắc đã có bước phát triển mới với sự xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Thái Nguyên, Việt Trì; các mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965) trong nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tiềm lực quốc phòng… đều căn bản đạt và vượt mức yêu cầu. Từ năm 1965 đến năm 1972, tuy bị thiệt hại lớn do chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, nhất là công nghiệp, giao thông vận tải, song nông nghiệp, công nghiệp địa phương miền Bắc vẫn được giữ vững và tiếp tục phát triển. Từ năm 1973, sau khi có Hiệp định Paris, miền Bắc đã tập trung khôi phục kinh tế, phát triển mạnh tiềm lực hậu phương, đến năm 1975 đã đạt mức tăng trưởng của năm 1965 và có mặt phát triển hơn, quan hệ đối ngoại được mở rộng.
- Về văn hóa, xã hội, trong thời kỳ 1954-1964, miền Bắc đã đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù chữ, xây dựng đời sống mới, phát triển mạnh giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ học vấn cho mọi tầng lớp nhân dân. Các cơ sở vật chất về văn hóa, y tế, giáo dục được xây dựng. Trong thời kỳ 1965-1975, dù chiến tranh ác liệt, nhưng với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, với khí thế “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, miền Bắc đã đề cao hơn bao giờ hết tinh thần hướng ra tiền tuyến, tỉnh cảm Bắc-Nam ruột thịt...
- Về quân sự, ngay sau khi có Hiệp định Giơnevơ (1954) hòa bình lập lại, Đảng, Nhà nước đã chủ trương tăng cường tiềm lực quốc phòng của miền Bắc. Từ năm 1957, Quân đội nhân dân được xây dựng một bước tiến lên chính quy hiện đại. Tổng quân số thường trực được duy trì ở mức độ thích hợp: năm 1959 có 160.000 người, năm 1963 có 170.000 người (bằng 1% số dân). Ngoài ra còn có 16.000 công nhân viên quốc phòng, 21.000 công an vũ trang, 1,2 triệu quân dự bị, 1,4 triệu dân quân tự vệ. Đầu năm 1965 miền Bắc có 195.000 bộ đội thường trực, cuối 1965 lên 400.000 người. Vũ khí trang bị được nâng cấp, nhiều quân binh chủng kỹ thuật được thành lập.
Thời kỳ 1965-1975 thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng vững chắc, có nhiều khu vực phòng thủ mạnh như Hà Nội, khu IV. Đoàn 559 được tăng cường thành Bộ đội Trường Sơn với 3 sư đoàn công binh, 2 sư đoàn và 29 trung đoàn vận tải, 6.770 xe ô tô. Đường Trường Sơn có nhiều tuyến dọc, ngang với tổng độ dài 16.790 km (cả Đông và Tây). Có 1.712 km đường ống xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam với 101 trạm bơm.
- Về tiếp nhận viện trợ quốc tế, với đường lối đối ngoại đúng đắn và chủ trương vận động quốc tế linh hoạt, miền Bắc đã nhận được sự ủng hộ về tinh thần rất to lớn và một khối lượng lớn vũ khí, trang bị quân sự hết sức quan trọng do các nước chi viện, chủ yếu qua đường sắt và đường thủy. Sự giúp đỡ quân sự của Trung Quốc đối với Việt Nam từ năm 1964 đến năm 1968 là rất to lớn.
Năm/ Loại | 1964 | 1965 | 1966 | 1967 | 1968 | + |
Súng | 80.500 | 220.767 | 141.153 | 146.600 | 219.899 | 808.919 |
Pháo | 1.205 | 4.439 | 3.362 | 3.984 | 6.406 | 19.396 |
Đạn (nghìn viên) | 25.240 | 114.010 | 178.120 | 147.000 | 247.920 | 712.290 |
Đạn pháo | 335 | 1.800 | 1.066 | 1.363 | 2.082 | 6.646 |
Radio | 426 | 2.779 | 1.568 | 2.464 | 1.854 | 9.091 |
Điện thoại | 2.941 | 9.502 | 2.235 | 2.289 | 3.313 | 20.280 |
Xe tăng | 16 | - | - | 26 | 18 | 60 |
Tàu chiến | - | 7 | 14 | 25 | - | 46 |
Máy bay | 18 | 2 | - | 70 | - | 90 |
Xe vận tải | 25 | 114 | 96 | 436 | 454 | 1.125 |
Quân phục (nghìn bộ) | - | - | 400 | 800 | 1.000 | 2.200 |
Sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh từ năm 1965 khi Liên Xô đồng ý cung cấp giúp đỡ hệ thống tên lửa đất đối không, máy bay, phi công huấn luyện và đội ngũ kỹ thuật viên nhằm bảo vệ khu vực Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố quan trọng khác. Ngay trong năm 1965, một số máy bay MIG 15, 17 và IL 28 đã được chuyển đến Việt Nam. Tính đến năm 1967, tổng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ Rúp (hơn 1,5 tỷ USD), trong đó sự trợ giúp của Liên Xô chiếm 36,8% (608 triệu USD). Đến cuối 1967, sự trợ giúp của Liên Xô tăng lên 50% tổng giá trị giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, trong đó sự giúp đỡ về quân sự chiếm 2/3. Năm 1968, Liên Xô đã dẫn đầu danh sánh các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ Việt Nam, với tổng giá trị đạt 542 triệu Rúp (582,2 triệu USD). Ngoài ra còn có khoảng 1.500 đến 2.500 lượt chuyên gia quân sự Liên Xô, bao gồm kỹ sư, phi công, kỹ thuật viên phụ trách hệ thống ra đa, tên lửa đã phục vụ ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh.
Trong giai đoạn 1969-1972, tiềm lực của hậu phương miền Bắc càng được tăng lên nhanh nhờ sự viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là về quân sự.
Loại | 1969 | 1970 | 1971 | 1972 | + |
Súng | 139.900 | 101.800 | 143.100 | 189.000 | 573.800 |
Pháo | 3.906 | 2.212 | 7.898 | 9.238 | 23.254 |
Đạn (nghìn viên) | 119.170 | 29.010 | 57.190 | 40.000 | 245.370 |
Đạn pháo | 1.357 | 397 | 1.890 | 2.210 | 5.854 |
Radio | 2.210 | 950 | 2.464 | 4.370 | 9.994 |
Điện thoại | 3.453 | 1.600 | 4.424 | 5.905 | 15.382 |
Xe tăng | - | - | 80 | 220 | 300 |
Tàu chiến | - | - | 7 | 14 | 21 |
Máy bay | - | 18 | 2 | - | 20 |
Xe vận tải | 162 | - | 4.011 | 8.758 | 12.931 |
Q. phục (nghìn bộ) | 1.200 | 1.200 | 1.200 | 1.400 | 5.000 |
Với sự lớn mạnh của hậu phương miền Bắc và sự chi viện to lớn của các nước anh em, tiềm lực quân sự của Việt Nam được tăng cường về mọi mặt. Ngày 24/10/1973 Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) ra đời ở Tam Điệp (Ninh Bình)...
Miền Bắc đã đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ được địa bàn và góp phần “chia lửa” với tiền tuyến miền Nam. Cả hai lần chống chiến tranh phá hoại, miền Bắcđã bắn rơi 4.181 máy bay, có 68 B52, 13 F111, bắn cháy, chìm 271 tàu chiến. Trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 357 chiếc máy bay, lão dân quân bắn rơi 6 chiếc, nữ dân quân bắn rơi 30 chiếc. Riêng trong cuộc chiến đấu năm 1972, nhất là trận Điện Biên Phủ trên không 12 ngày đêm cuối 1972 (18-30/12), miền Bắc đã bắn rơi nhiều loại máy bay hiện đại của Mỹ, trong đó có 62 B52, 10 F111, bắn chay, chìm 128 tàu chiến.
Tuy nhiên, miền Bắc cũng bị tàn phá nặng nề qua hai cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ. Trong công nghiệp, có 18% máy móc công nghiệp không sử dụng được, 26% máy móc công nghiệp bị hư hỏng, số còn lại chỉ hoạt động 6h/ngày, 91 ngày/năm. Trong nông nghiệp, diện tích trồng trọt giảm 3,6%, chi phí sản xuất tăng 75 %. Thu nhập của xã viên giảm 23,7%, lương thực bình quân đầu người từ 305 kg (1961-1965) xuống còn 252 kg (1966-1975). Giao thông vận tải chịu 60% sự đánh phá của địch. Trong những năm 1965-1968, trung bình cứ 1 km đường bộ có 19,3 quả bom và bị đánh 4 lần, 1 km đường sắt Hà Nội- Vinh bị đánh 19,5 lần. Hàng chục vạn người bị chết. Hầu hết công trình xây dựng, cầu cống, bệnh viện, trường học... bị tàn phá.
Ở miền Nam, về chính trị, Việt Nam đã sớm có chủ trương xây dựng hậu phương tại chỗ. Năm 1954, khi thực hiện tập kết lực lượng ra miền Bắc, nhiều cán bộ đã ở lại bám cơ sở và chuyển cuộc chiến đấu sang đấu tranh chính trị, hợp pháp đòi thực hiện tổng tuyển cử hòa bình thống nhất như quy định của Hiệp định Giơnevơ. Từ 1960, sau phong trào Đồng Khởi, Việt Nam đã chủ trương bảo vệ, xây dựng các vùng giải phóng thành hậu phương tại chỗ, thành lập và sử dụng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiêm nhiệm chức năng chính quyền cách mạng, củng cố Trung ương cục, xây dựng Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam, xây dựng Đoàn Thanh niên cách mạng, Hội lao động giải phóng... Đến 1969, Việt Nam đã chủ trương thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng các cấp ở vùng giải phóng và các các căn cứ du kích, các vùng tranh chấp. Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoàn miền Nam Việt Nam được nhiều nước trên thế giới công nhận, đặt quan hệ ngoại giao và ủng hộ, giúp đỡ.
- Về kinh tế, văn hóa xã hội, từ năm 1960, tại các vùng giải phóng, khu căn cứ lớn, Việt Nam chủ trương phát triển sản xuất, thực hiện đảm bảo một phần nhu cầu lương thực, vũ khí tại chỗ cho bộ đội, nhân dân, nhất là ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Mặt khác đã tiếp nhận có hiệu quả sự chi viện vất chất của hậu phương miền Bắc và tìm mọi cách lấy kinh tế địch để đánh địch, vận động nhân dân các vùng tạm bị chiếm ủng hộ quân giải phóng, tiếp tế cho các căn cứ kháng chiến. Với nhiều cố gắng, hậu phương tại chỗ ở miền Nam đã bảo đảm được một phần quan trọng nhu cầu thực phẩm, lương thực, vũ khí và các nhu yếu phẩm cho bộ đội chủ lực, phần lớn các nhu cầu cho bộ đội địa phương và dân quân du kích. Với lực lượng giáo viên tại chỗ và đưa từ hậu phương lớn miền Bắc vào, hệ thống giáo dục phổ thông được xây dựng, trước hết là bậc tiểu học. Mạng lưới y tế được tăng cường với các tuyến bệnh viện bệnh xá, trại an dưỡng, trạm phẫu thuật các cấp. Các đội chiếu phim, đoàn văn công đã lưu động phục vụ bộ đội, nhân dân…
- Về quân sự, từ năm 1960, khi có vùng giải phóng, có các chiến khu, Việt Nam đã đẩy mạnh xây dựng các đơn vị vũ trang các cấp, thành lập Quân giải phóng, Bộ chỉ huy toàn miền và của các khu, các tỉnh. Nhiều công binh xưởng được xây dựng, sản xuất vũ khí cung cấp cho lực lượng vũ trang địa phương. Việc lấy vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch để đánh địch được phát động, trở thành phong trào chung, thu kết quả hết sức to lớn. Hệ thống kho tàng, đường sá, trạm giao liên tiếp nhận sự chi viện quân sự của hậu phương lớn được tổ chức liên thông, không chỉ trên đất miền Nam mà còn phát triển rộng lớn cả ở trên đất các nước bạn Lào và Campuchia. Với sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc, ngày 17/5/1974, Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) được thành lập ở Trị Thiên, ngày 20/7/1974, Quân đoàn 4 (binh đoàn Cửu Long) ra đời ở Đông Nam Bộ, ngày 27/3/1975, Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) ra đời ở Tây Nguyên.
Nhìn chung, tại các căn cứ, vùng giải phóng miền Nam và ở Lào, Campuchia, Việt Nam đã xây dựng được hậu phương tại chỗ vững mạnh, có năng lực tiếp nhân sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc, bảo đảm ngày càng đầy đủ hậu cần cho Quân giải phóng toàn Miền và cho cả chiến trường ba nước Đông Dương chiến đấu và chiến thắng.
Hạn chế trong xây dựng hậu phương bảo đảm hậu cần cho Quân đội của Việt Nam thời kỳ 1954- 1975 là tư duy về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn giản đơn, mô phỏng nước ngoài, vội cải tạo một số thành phần kinh tế đang cón tác dụng, vội đẩy mạnh công nghiệp hóa khi còn thiều các điều kiện cơ bản. Quy mô sản xuất nhiều lĩnh vực chưa thích hợp, ham quy mô lớn, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Việc kết hợp xây dựng với bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến cả ở miền Bắc và vùng giải phóng miền Nam có lúc chưa chặt chẽ, bị lãnh phí nhiều, có nơi, có lúc bị địch gây tổn thất lớn. Các tổ chức quần chúng, phong trào thi đua còn hình thức, chất lượng thấp. Tư tưởng ỷ lại, trông chờ viện trợ, chi viện từ bên ngoài còn nặng, tâm lý bao cấp thời chiến trở nên phổ biến, gây hậu quả lâu dài về sau…
2. MẤY KINH NGHIỆM CHO HIỆN TẠI
- Một là, sức mạnh của hậu phương quyết định sức mạnh của quân đội, hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Công thức chung về mối quan hệ giữa hậu phương với quân đội và tiền tuyến luôn luôn vẫn là: CUNG CỦA HẬU PHƯƠNG phải luôn bằng hoặc lớn hơn CẦU CỦA QUÂN ĐỘI/TIỀN TUYẾN thì quân đội mới giành được chiến thắng. Vì vậy khi có chiến tranh hay lúc bình thường đều phải nhận thức đúng đắn quan điểm/ công thức đó để ra sức xây dựng, bảo vệ tiềm lực mọi mặt của hậu phương, của đất nước, tạo thế và lực bảo đảm cho quân đội giành chiến thắng. Không có thực lực (vật chất, nhân lực, kỹ thuật, trình độ lãnh đạo, chỉ huy, ý chí tinh thần, địa bàn…) thì quân đội không thể giành thắng lợi trên chiến trường, trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và không phận của quốc gia.
Hai là, xây dựng, bảo vệ hậu phương, huy động sức mạnh hậu phương cho quân đội, cho chiến tranh phải toàn diện cả về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, khoa học kỹ thuật... Phải quán triệt quan điểm dựa vào dân, dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Hậu phương của ta phải là hậu phương của chiến tranh nhân dân, phải có chế độ chính trị, văn hoá. xã hội ưu việt, tiến bộ, dần dần có kinh tế, quốc phòng lớn mạnh mới đủ sức bảo đảm hậu cần cho quân đội, cho tiền tuyến chiến thắng.
Ba là, muốn có hậu phương, nhất là những vùng hậu phương chiến lược vững mạnh phải ra sức bảo vệ, giải phóng những nơi “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, nơi đã từng là căn cứ địa hậu phương trong các cuộc kháng chiến trước đó (như Việt Bắc, Tây Bắc, Thanh- Nghệ- Tĩnh, Trường Sơn- Tây Nguyên, Đông Nam Bộ…), đồng thời phải căn cứ vào thực tế mỗi thời kỳ, mỗi khu vực để tạo đất đứng chân, căn cứ địa, hậu phương chiến lược phù hợp với các đối tượng và hướng tác chiến, với nhu cầu mới của chiến tranh, của Quân đội, với loại hình tiền tuyến là vùng biển đảo xa đất liền. Nói chung phải hết sức chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xây dựng, bảo vệ hậu phương tại chỗ, hậu phương chiến lược cũng như hậu phương quốc tế.
Bốn là, xây dựng, bảo vệ hậu phương, bảo đảm hậu cần cho Quân đội, chi viện tiền tuyến là một quá trình từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. Phải kết hợp tốt các nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ và chi viện, không coi nhẹ nhiệm vụ nào, song tùy từng thời kỳ từng nơi mà có sự tập trung cho mỗi lĩnh vực. Nhìn chung xây dựng phải đi liền với bảo vệ, xây dựng là cơ sở để bảo vệ và chi viên, phải trên cơ sở bồi dưỡng sức dân mà huy động sức dân, phải làm tốt công tác hậu phương quân đội, hậu phương sau chiến tranh để “làm kế sâu rễ bền gốc” cho quân đội, cho sự nghiệp bảo vệ đất nước lâu dài.
Năm là, chiến tranh càng hiện đại, vai trò của nhân tố kinh tế, hậu phương đối với quân đội, với tiền tuyến càng tăng lên. Chiến tranh càng hiện đại, thời gian diễn ra ngắn, nhưng mực độ hao tổn lớn và nhanh, nhất là đối với nguồn nhân lực kỹ thuật, vũ khí đắt tiền, nên quân đội, tiền tuyến càng lệ thuộc vào hậu phương, song hậu phương lại bị đánh phá khó đáp ứng được. Do đó phải có sự kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế từ thời bình, từ trước chiến tranh, trong phạm vi toàn quốc cũng như mỗi khu vực, mỗi địa phương để quân đội không bị động, hậu phương không rối loạn khi có chiến sự. Mặt khác phải kết hợp tốt giữa quảng bá, tuyên truyền tiềm lực quốc phòng của hậu phương, của đất nước với che dấu sức mạnh và cài bẫy về thế trận phòng thủ của Quân đội, tránh sự bộc lộ không cần thiết về tiềm lực, về thế trận.
Sáu là, trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện tại, nhiều vấn đề tuy đã khác trước, song nhân tố quyết định thường xuyên của hậu phương đối với sức mạnh của quân đội, với thắng lợi của chiến tranh vẫn là tiềm lực của hậu phương, của đất nước. Xây dựng hậu phương trong thời kỳ mới vẫn phải chú trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, khoa học kỹ thuật; phải kết hợp kinh tế với quốc phòng và ngoại giao. Việc nắm vững quan điểm biện chứng về mối quan hệ giữa sức mạnh đất nước với sức mạnh quân đội, vai trò quyết định của hậu phương với thắng lợi của tiền tuyến, những kinh nghiệm xây dựng và phát huy sức mạnh nhân dân, sức mạnh quốc tế,… của thời kỳ 1954- 1975 là rất cần thiết đối với các thế hệ đương đại. Nó không chỉ giúp hiểu thấu đáo, sâu xa một nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã qua mà còn có ý nghĩa thực tiễn thiết thực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Việt Nam hiện nay./.
PGS.TS Ngô Đăng Tri, Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN.
Tác giả: PGS.TS Ngô Đăng Tri
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn